Tài nguyên – Kinhte.org https://kinhte.org Cập nhật tin tức kinh tế Việt Nam và thế giới, phân tích thị trường, chính sách tài chính và diễn đàn kinh doanh Sun, 14 Sep 2025 09:39:14 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.4 https://cloud.linh.pro/news/2025/08/kinhte.svg Tài nguyên – Kinhte.org https://kinhte.org 32 32 Phát triển du lịch Đồng bằng sông Cửu Long: Cần chiến lược đồng bộ https://kinhte.org/phat-trien-du-lich-dong-bang-song-cuu-long-can-chien-luoc-dong-bo/ Sun, 14 Sep 2025 09:39:10 +0000 https://kinhte.org/phat-trien-du-lich-dong-bang-song-cuu-long-can-chien-luoc-dong-bo/

Sau khi hợp nhất, vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) sẽ bao gồm 5 tỉnh, thành phố là Cà Mau, An Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long và Đồng Tháp. Với thế mạnh về tài nguyên miệt vườn, sông nước, biển, đảo, hệ thống danh lam, thắng cảnh, di sản văn hóa phong phú và bản sắc văn hóa độc đáo, du lịch vùng ĐBSCL được kỳ vọng sẽ có bước chuyển mình mạnh mẽ.

Du lịch đồng bằng sông Cửu Long được đặt nhiều kỳ vọng sau hợp nhất tỉnh.
Du lịch đồng bằng sông Cửu Long được đặt nhiều kỳ vọng sau hợp nhất tỉnh.

Quá trình hợp nhất không gian du lịch ở mỗi tỉnh, thành phố vùng ĐBSCL đã được mở rộng. Các kết nối liên vùng, nội tỉnh trở nên linh hoạt và hiệu quả hơn, giúp việc xây dựng tour, tuyến thuận lợi hơn, mang đến cho du khách hình ảnh ĐBSCL mới mẻ hơn, hấp dẫn hơn. Sự phân vùng không chỉ giúp tránh chồng lấn sản phẩm mà còn tạo điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch chuyên sâu và bài bản hơn để thu hút du khách.

Tuy nhiên, dù các tỉnh, thành phố ĐBSCL đã chú trọng công tác liên kết, hợp tác phát triển du lịch, vẫn còn thực trạng ‘mạnh ai nấy làm’ dẫn đến rời rạc, thiếu tính kết nối. Do đó, sản phẩm du lịch vùng này có sự trùng lắp, thiếu chiều sâu và gây khó khăn cho doanh nghiệp trong xây dựng các tour liên tỉnh.

Các chuyên gia du lịch khẳng định, hợp nhất tỉnh là dịp để tái tổ chức ngành du lịch theo hướng chuyên nghiệp hơn. Tuy nhiên, để phát triển du lịch ĐBSCL bền vững cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp chiến lược như đầu tư phát triển hạ tầng du lịch hiện đại, đồng bộ từ việc cải thiện hệ thống giao thông liên vùng; ứng dụng công nghệ số trong quản lý điểm đến, chỉ dẫn thông minh và quảng bá du lịch; định vị và phát triển sản phẩm du lịch đặc thù gắn với bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa vùng; tăng cường xúc tiến, quảng bá du lịch quy mô vùng…

Đặc biệt là đào tạo nguồn nhân lực qua các lớp đào tạo, tập huấn nhân lực du lịch theo chuẩn quốc tế, chú trọng ngoại ngữ, kỹ năng phục vụ và văn hóa ứng xử. Ngoài ra, cần xây dựng và tăng cường cơ chế phối hợp liên kết giữa các tỉnh, thành phố thông qua các hội đồng liên kết và hệ thống thông tin chung để tạo thống nhất trong phát triển sản phẩm du lịch.

Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hiệp khẳng định, du lịch ĐBSCL cần có ‘nhạc trưởng’ điều phối để sản phẩm tránh trùng lắp và công tác liên kết du lịch phát huy sức mạnh tổng lực. Công tác liên kết phát triển du lịch ngoài chính quyền cần hướng đến liên kết thị trường, liên kết giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp và cơ quan truyền thông, quảng bá hình ảnh, thương hiệu du lịch theo hướng phát triển các chuỗi giá trị, sản phẩm du lịch đặc thù…, từ đó có phân công rõ trong liên kết, phát huy lợi thế, khắc phục hạn chế, chia sẻ lợi ích, phát triển bền vững.

Giám đốc Sở Du lịch Bùi Quốc Thái cho biết, việc thay đổi địa giới hành chính mở ra cơ hội tái cấu trúc mang tính chiến lược, các địa phương có thể dễ dàng phối hợp hơn trong quản lý tài nguyên du lịch, kết nối hạ tầng và tổ chức tour, tuyến đồng bộ, từ đó tạo ra chuỗi giá trị du lịch liên hoàn, hấp dẫn và bền vững.

]]>
Công nghiệp xanh – chìa khóa cho tăng trưởng bền vững ở Việt Nam https://kinhte.org/cong-nghiep-xanh-chia-khoa-cho-tang-truong-ben-vung-o-viet-nam/ Sun, 10 Aug 2025 15:07:59 +0000 https://kinhte.org/cong-nghiep-xanh-chia-khoa-cho-tang-truong-ben-vung-o-viet-nam/

Trong bối cảnh thế giới đang chuyển mạnh sang phát triển xanh, công nghiệp xanh không chỉ là xu thế mà đã trở thành yêu cầu bắt buộc để Việt Nam duy trì tăng trưởng cao và đáp ứng được các chuẩn mực phát triển bền vững toàn cầu. Điều này cũng là nội dung chính được thảo luận tại Diễn đàn ‘Công nghiệp xanh 2025: Hài hòa mục tiêu tăng trưởng cao và phát triển bền vững’, diễn ra sáng 9/7 tại Hà Nội. Chương trình có sự quan tâm và đồng hành của Tập đoàn Công nghiệp – Năng lượng Quốc gia Việt Nam (PVN).

Sau hơn ba thập kỷ công nghiệp hóa, ngành công nghiệp đã trở thành động lực chính tạo việc làm và đóng góp khoảng 35% vào GDP. Tuy nhiên, quá trình phát triển nhanh chóng cũng đi kèm với những hệ lụy đáng kể về môi trường, sử dụng tài nguyên và hiệu quả năng lượng. Đặc biệt, trong khi các lĩnh vực như năng lượng và giao thông đang có chuyển biến tích cực theo hướng xanh, thì công nghiệp – trụ cột sản xuất quốc gia – vẫn chưa được đặt đúng vị trí trong chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh và mục tiêu Net Zero vào năm 2050.

Các đại diện doanh nghiệp chia sẻ về mục tiêu và những khó khăn trong chuyển đổi xanh. Ảnh: Mỹ Hoa
Các đại diện doanh nghiệp chia sẻ về mục tiêu và những khó khăn trong chuyển đổi xanh. Ảnh: Mỹ Hoa

Phát biểu khai mạc, ông Chử Văn Lâm, Chủ tịch Hội đồng Biên tập Tạp chí Kinh tế Việt Nam, nhấn mạnh những thành tựu nổi bật của Việt Nam sau gần 40 năm đổi mới. Từ một nền kinh tế nông nghiệp, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia có năng lực cạnh tranh công nghiệp trung bình cao, đóng góp hơn 30% GDP và nằm trong top 25 quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới. Tuy nhiên, ông cũng chỉ ra thách thức rằng mô hình công nghiệp hiện tại gây áp lực lớn lên môi trường, xã hội và sức khỏe của cộng đồng.

‘Phát triển công nghiệp theo cách cũ không còn phù hợp. Chúng ta cần tái định hình chiến lược để vừa duy trì tăng trưởng cao, vừa đảm bảo bền vững. Đây là bài toán hài hòa, không phải đánh đổi’, ông Lâm khẳng định.

Ông Nguyễn Bá Hùng, chuyên gia kinh tế trưởng Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam, cũng nhấn mạnh rằng các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và nhiều mô hình kinh tế nói chung không nên dựa vào các mô hình trong quá khứ để chuẩn bị cho tương lai. Việc áp dụng các tiêu chuẩn ESG và cam kết Net Zero cũng là điều kiện tiên quyết để các doanh nghiệp Việt Nam tiếp tục là mắt xích trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Diễn đàn đã tái định nghĩa tăng trưởng xanh trong công nghiệp, xác định cách áp dụng nguyên tắc bền vững vào thực tiễn sản xuất, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Các chuyên gia cũng đưa ra nhiều mô hình tăng trưởng bền vững khả thi và lý tưởng cho chuỗi sản xuất tuần hoàn, góp phần tháo gỡ các khó khăn của doanh nghiệp và khu công nghiệp tại Việt Nam.

Một điểm nhấn tại diễn đàn là cách tiếp cận phát triển bền vững dựa trên sử dụng tài nguyên tối ưu, hiệu quả và có trách nhiệm, thay vì giới hạn cứng nhắc về tài nguyên. Cách tiếp cận này gắn với cơ chế thị trường, bảo đảm khả năng phát triển dài hạn.

Giải pháp không nằm ở đánh đổi mà ở sự hài hòa thông minh – thông qua công nghệ sạch, tối ưu tài nguyên, đổi mới mô hình sản xuất và xây dựng hệ thống thu gom, tái chế chất thải hiệu quả. Đặc biệt, các diễn giả cùng thảo luận cách tiếp cận mới đối với khái niệm ‘phát triển bền vững’ – không tuyệt đối hóa việc hạn chế tài nguyên mà chấp nhận sử dụng có trách nhiệm, hiệu quả và linh hoạt theo cơ chế thị trường.

Ông Juhern Kim, Trưởng đại diện quốc gia của Viện Tăng trưởng Xanh Toàn cầu (GGGI) tại Việt Nam, chia sẻ: ‘Với vai trò là một tổ chức liên chính phủ – trong đó có Việt Nam là thành viên, GGGI luôn mong muốn đồng hành cùng các quốc gia trên hành trình hướng tới phát triển bền vững và tăng trưởng xanh. Điều quan trọng là cần theo đuổi song hành hai mục tiêu: vừa tăng trưởng kinh tế, vừa bảo vệ môi trường. Trong đó, việc nhân rộng các mô hình khu công nghiệp sinh thái (EIP) trên toàn quốc là một bước đi then chốt. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng khuyến khích xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp xanh như một lực đẩy mới để thúc đẩy chuyển đổi bền vững trong các khu công nghiệp hiện nay’.

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu nhiều biến động, Việt Nam đang theo đuổi mục tiêu kép đầy thách thức: duy trì tốc độ tăng trưởng GDP hai con số từ năm 2025, đồng thời đảm bảo cam kết giảm phát thải, thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu.

Để hiện thực hóa mục tiêu này, không thể thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa Chính phủ, cộng đồng doanh nghiệp, giới chuyên gia và các tổ chức quốc tế. Hơn bao giờ hết, Việt Nam cần một mạng lưới liên kết mạnh mẽ – nơi mỗi chủ thể đều chủ động đóng góp, đồng thời tiếp nhận tri thức và nguồn lực từ các đối tác toàn cầu.

Chỉ khi hành động đồng bộ và có chiến lược, con đường tiến tới một nền công nghiệp xanh – với tốc độ tăng trưởng cao và chất lượng phát triển bền vững – mới trở thành hiện thực.

]]>
Sửa Luật Đất đai để đất đai là tài nguyên đặc biệt https://kinhte.org/sua-luat-dat-dai-de-dat-dai-la-tai-nguyen-dac-biet/ Sun, 03 Aug 2025 23:55:27 +0000 https://kinhte.org/sua-luat-dat-dai-de-dat-dai-la-tai-nguyen-dac-biet/

Sửa đổi Luật Đất đai – một đạo luật có ảnh hưởng sâu rộng đến hàng triệu người dân và hàng trăm tỷ USD đầu tư, đòi hỏi một mục tiêu tối thượng rõ ràng. Điều này đã được Trung ương Đảng chỉ rõ: đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, cần được quản lý minh bạch để đảm bảo lợi ích chung của toàn dân. Đất đai không thể là ‘sân chơi’ của đầu cơ hay công cụ tận thu ngân sách.

Một trong những điểm yếu của Luật Đất đai 2013 là cơ chế khung giá đất, dẫn đến giá đất do Nhà nước quy định thường chỉ bằng 20-30% giá thị trường. Điều này đã gây ra hơn 80% đơn thư khiếu nại đất đai. Luật mới cần có hướng giải quyết để bảng giá đất do địa phương xây dựng sát với giá thị trường, nhưng cần tránh việc lấy giá sốt đất làm cơ sở. Việc xây dựng bảng giá đất phù hợp sẽ giúp giảm thiểu khiếu nại và đảm bảo công bằng trong quản lý đất đai.

Chính sách tài chính đất đai cũng cần được xem xét lại. Việc truy thu bổ sung 5,4%/năm đối với tiền sử dụng đất chưa nộp đang khiến nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn. Với hơn 2.887 dự án vướng mắc liên quan đất đai, tổng vốn hơn 235 tỷ USD, việc áp mức truy thu như trên có thể dẫn đến những hệ lụy lớn. Các doanh nghiệp và chuyên gia cho rằng, chính sách này cần được điều chỉnh để tránh gây ra những khó khăn cho doanh nghiệp và nhà đầu tư.

Ngân sách có thể bội thu từ đất đai, nhưng nếu đất đai chỉ phục vụ mục đích này, thì lợi ích kinh tế đó là ngắn hạn và thiếu bền vững. Giá đất cần được tiếp cận từ góc độ công lý, đảm bảo không để Nhà nước thất thu thuế, không làm doanh nghiệp mất khả năng sinh lời, và không để người dân mất cơ hội có nhà. Chính sách đất đai cần được điều chỉnh để đảm bảo sự công bằng và bền vững.

Thay vì thu truy thu, nên đánh thuế lũy tiến vào sở hữu đất đai. Doanh nghiệp đề nghị bỏ quy định truy thu 5,4% trong lần sửa đổi sắp tới của Nghị định 103. Điều này có thể giải phóng hàng trăm dự án và khơi thông hàng tỷ USD. Việc đánh thuế lũy tiến vào sở hữu đất đai sẽ giúp giảm thiểu tình trạng đầu cơ đất đai và tăng thu ngân sách một cách bền vững.

Sửa Luật Đất đai không thể chỉ là bản vá. Đây là lúc cần tái thiết toàn diện hệ thống quản trị đất đai, với triết lý cốt lõi là đất đai phục vụ phát triển công bằng, bền vững và vì lợi ích chung của toàn dân. Việc sửa đổi Luật Đất đai cần được thực hiện một cách toàn diện và triệt để để đảm bảo rằng đất đai được quản lý và sử dụng một cách hiệu quả và bền vững.

]]>