Thể chế – Kinhte.org https://kinhte.org Cập nhật tin tức kinh tế Việt Nam và thế giới, phân tích thị trường, chính sách tài chính và diễn đàn kinh doanh Tue, 26 Aug 2025 14:53:29 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/news/2025/08/kinhte.svg Thể chế – Kinhte.org https://kinhte.org 32 32 Nâng tốc đầu tư công: Cần hệ thống toàn diện để đạt mục tiêu tăng trưởng cao https://kinhte.org/nang-toc-dau-tu-cong-can-he-thong-toan-dien-de-dat-muc-tieu-tang-truong-cao/ Tue, 26 Aug 2025 14:53:26 +0000 https://kinhte.org/nang-toc-dau-tu-cong-can-he-thong-toan-dien-de-dat-muc-tieu-tang-truong-cao/

Đẩy mạnh đầu tư công đang được xác định là một lực đẩy quan trọng để đạt được các mục tiêu tăng trưởng kinh tế, với kế hoạch giải ngân vốn đầu tư công lên tới cả triệu tỷ đồng trong thời gian tới. Tuy nhiên, tình trạng chậm giải ngân vốn đầu tư công kéo dài tại nhiều dự án trọng điểm đang trở thành một thách thức lớn. Để giải quyết vấn đề này, nhiều địa phương đã phải đưa ra các biện pháp mạnh mẽ để đẩy nhanh tiến độ.

Đầu tư công đua nước rút
Đầu tư công đua nước rút

Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Cà Mau đã yêu cầu các chủ đầu tư phải giải ngân đạt 80% kế hoạch vốn trước cuối năm 2025, nếu không sẽ bị xem xét kỷ luật. Tương tự, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân TP.HCM cũng giao chỉ tiêu đảm bảo giải ngân 30% vốn đầu tư công trở lên vào cuối quý II. Những nỗ lực này đã góp phần giúp giải ngân đầu tư công tăng ấn tượng 40% trong nửa đầu năm nay.

Đầu tư công đua nước rút
Đầu tư công đua nước rút

Sự cải thiện trong thủ tục hành chính là một trong những nguyên nhân quan trọng giúp đẩy nhanh tiến độ các dự án. Không chỉ các dự án cấp tỉnh, các dự án quy mô quốc gia như sân bay Long Thành, đường vành đai Hà Nội và TP.HCM, tuyến đường sắt Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng cũng được đẩy nhanh tiến độ, với thời gian khởi công và hoàn thành được rút ngắn tới 3 năm.

Quốc hội đã thông qua các biện pháp cho phép chính quyền địa phương phê duyệt các dự án quy mô lớn, giúp bộ máy hành chính cả ở trung ương lẫn địa phương đẩy nhanh tiến độ phê duyệt. Đồng thời, quy trình phê duyệt cho các dự án công đang được tinh giản và Chính phủ đang tích cực thúc đẩy mô hình đối tác công – tư. Việc sáp nhập 63 Kho bạc Nhà nước cấp tỉnh thành 20 Kho bạc Nhà nước cấp khu vực cũng giúp giảm đầu mối của hệ thống Kho bạc với doanh nghiệp, rút ngắn thời gian giải ngân xuống còn 1-3 ngày.

Kế hoạch đầu tư công năm 2025 dự kiến ở mức hơn 790.000 tỷ đồng, với mục tiêu giải ngân lên tới 825.900 tỷ đồng, tăng 21% so với kế hoạch năm 2024. Để đạt mức tăng trưởng 8% trở lên, 6 tháng cuối năm, cần tăng trưởng 8,4-8,5%, một mức tăng trưởng cao trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều thách thức.

Việt Nam đang ở vị thế thuận lợi để duy trì đà giải ngân mạnh mẽ cho đầu tư hạ tầng. Tuy nhiên, để có nguồn lực cho đầu tư công, Chính phủ có thể phải tăng cường vay nợ, và việc vay nợ có thể làm tăng lãi suất thị trường, khiến doanh nghiệp khó tiếp cận vốn hơn. Do đó, việc quản lý vốn vay hiệu quả để tránh tạo gánh nặng lên ngân sách nhà nước là rất quan trọng.

Việc đẩy mạnh đầu tư công của Chính phủ tạo ra cơ hội vàng cho khối tư nhân, không chỉ thông qua việc trực tiếp tham gia dự án mà còn gián tiếp hưởng lợi từ sự phát triển chung của nền kinh tế. Tuy nhiên, cơ hội đầu tư vào các cổ phiếu niêm yết liên quan đến đầu tư công vẫn còn hạn chế, và các doanh nghiệp hạ tầng niêm yết thường gặp hạn chế về quản trị doanh nghiệp và năng lực tài chính.

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, để đầu tư công thực sự trở thành động lực phát triển, cần có một hệ thống toàn diện bao gồm pháp luật, thể chế, quy trình, công cụ quản lý và năng lực thực thi. Các nước phát triển thường có hệ thống trách nhiệm cá nhân rất cao, gắn liền với hiệu quả công việc và kết quả dự án.

đầu tư công đang là một trong những vấn đề quan trọng trong phát triển kinh tế của Việt Nam. Các dự án đầu tư công đang được đẩy mạnh để đạt được các mục tiêu tăng trưởng kinh tế.

]]>
Nâng cao năng lực phản biện, kiến nghị chính sách của các hiệp hội, doanh nghiệp https://kinhte.org/nang-cao-nang-luc-phan-bien-kien-nghi-chinh-sach-cua-cac-hiep-hoi-doanh-nghiep/ Sat, 16 Aug 2025 23:01:17 +0000 https://kinhte.org/nang-cao-nang-luc-phan-bien-kien-nghi-chinh-sach-cua-cac-hiep-hoi-doanh-nghiep/

Ngày 16/7, Tạp chí điện tử Bất động sản Việt Nam và Viện Nghiên cứu Bất động sản Việt Nam đã tổ chức thành công Diễn đàn “Vai trò của hiệp hội, doanh nghiệp và cơ quan báo chí trong xây dựng và phản biện chính sách”. Sự kiện này đã tập trung thảo luận về vai trò quan trọng của các hiệp hội, doanh nghiệp và cơ quan báo chí trong quá trình xây dựng và phản biện chính sách, đặc biệt là trong bối cảnh cải cách thể chế đang là yêu cầu cấp thiết.

Các chuyên gia và đại biểu tham dự diễn đàn đã nhấn mạnh sự cần thiết của việc xây dựng một hệ thống pháp luật hiện đại, thực chất, hướng tới lợi ích của nhân dân và doanh nghiệp. Tiến sĩ Nguyễn Văn Khôi, Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản Việt Nam, đánh giá cao Nghị quyết của Bộ Chính trị ban hành gần đây, thể hiện quyết tâm chính trị cao và nỗ lực bền bỉ trong việc xây dựng một hệ thống pháp luật hiện đại.

Tiến sĩ Phan Đức Hiếu, đại biểu Quốc hội và Ủy viên chuyên trách Ủy ban Kinh tế Tài chính của Quốc hội, cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của tính chính xác, độc lập và khách quan của báo chí trong thông tin. Ông cho rằng báo chí cần duy trì tính độc lập và khách quan để đảm bảo thông tin được chính xác và đáng tin cậy.

Diễn đàn cũng thảo luận về các giải pháp để phát huy vai trò của các hiệp hội, doanh nghiệp và cơ quan báo chí trong xây dựng và thực thi chính sách hiệu quả. Các đại biểu tham dự đã đưa ra nhiều ý kiến và đề xuất nhằm cải thiện cơ chế phản hồi các ý kiến đề xuất đóng góp và tăng cường vai trò của báo chí trong việc phản biện chính sách.

Giáo sư, Tiến sĩ Hoàng Văn Cường, Ủy viên Ủy ban Kinh tế Tài chính của Quốc hội, đề xuất cần loại bỏ tư duy “không quản được thì cấm” và thay vào đó, điều chỉnh chính sách để doanh nghiệp tuân thủ và làm tốt. Ông cũng nhấn mạnh sự cần thiết của việc tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi và hỗ trợ doanh nghiệp phát triển.

Tổng kết diễn đàn, có thể thấy sự phối hợp chặt chẽ giữa các hiệp hội, doanh nghiệp và cơ quan báo chí là yếu tố quan trọng trong việc xây dựng và phản biện chính sách. Sự kết hợp này sẽ giúp tạo ra một hệ thống pháp luật hiện đại, thực chất và hiệu quả, hướng tới mục tiêu phát triển đất nước và nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân. Để biết thêm thông tin về diễn đàn, vui lòng truy cập Tạp chí điện tử Bất động sản Việt Nam và Viện Nghiên cứu Bất động sản Việt Nam để có thông tin chi tiết.

]]>
Thương mại điện tử và chuyển đổi số: Thách thức và cơ hội cho kỷ nguyên mới https://kinhte.org/thuong-mai-dien-tu-va-chuyen-doi-so-thach-thuc-va-co-hoi-cho-ky-nguyen-moi/ Thu, 07 Aug 2025 13:39:16 +0000 https://kinhte.org/thuong-mai-dien-tu-va-chuyen-doi-so-thach-thuc-va-co-hoi-cho-ky-nguyen-moi/

Đại hội Đại biểu Đảng bộ Bộ Công Thương lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030, đã diễn ra với sự tham gia của các đại biểu quan trọng, trong đó có Cục trưởng Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số, Lê Hoàng Oanh. Bà Oanh đã trình bày một tham luận quan trọng về chủ đề “Hoàn thiện thể chế phát triển thương mại điện tử và chuyển đổi số đáp ứng yêu cầu cho kỷ nguyên mới”. Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ và xu hướng toàn cầu hóa đang ngày càng gia tăng, kinh tế số, thương mại điện tử và chuyển đổi số đã được xác định là những động lực then chốt thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội.

Đại hội Đại biểu Đảng bộ Bộ Công Thương lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030
Đại hội Đại biểu Đảng bộ Bộ Công Thương lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 – 2030

Giai đoạn 2020-2025, Chi bộ Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số đã triển khai nhiều nội dung quan trọng và đạt được những kết quả đáng kể trong lĩnh vực phát triển thương mại điện tử và chuyển đổi số. Đáng chú ý, vào năm 2024, quy mô thị trường thương mại điện tử bán lẻ tại Việt Nam đã đạt khoảng 25 tỷ USD, tăng trên 20% so với năm trước và chiếm khoảng 10% tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng. Thương mại điện tử đã đóng góp hai phần ba giá trị kinh tế số quốc gia, đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia có tốc độ phát triển thương mại điện tử nhanh nhất thế giới.

Công tác chuyển đổi số cũng được đẩy mạnh thông qua việc hoàn thiện các giải pháp kỹ thuật, quy trình số hóa, góp phần nâng cao chất lượng phục vụ cải cách hành chính và hiện đại hóa hoạt động của Bộ Công Thương. Gần 4 triệu hồ sơ trực tuyến đã được xử lý qua Cổng dịch vụ công của Bộ và đồng bộ hoàn toàn sang Cổng dịch vụ công quốc gia. Tỷ lệ số hóa tại Bộ Công Thương đạt 100% và vào năm 2024, Bộ đã tiếp tục dẫn đầu các Bộ, ngành về chỉ số phục vụ người dân và doanh nghiệp qua dịch vụ công trực tuyến.

Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của thương mại điện tử cũng đặt ra một số vấn đề cần được quan tâm. Đặc biệt, sự xuất hiện của các loại hình mới như thương mại điện tử xuyên quốc gia, thương mại điện tử trên mạng xã hội đòi hỏi một khung pháp lý đồng bộ, minh bạch để quản lý hiệu quả, bảo vệ người tiêu dùng và chống thất thu thuế. Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng nhanh của thương mại điện tử cũng đặt ra rủi ro về môi trường, đồng thời việc xây dựng và kết nối cơ sở dữ liệu vẫn còn nhiều dư địa để phát triển.

Để đáp ứng được những yêu cầu trong kỷ nguyên mới trong giai đoạn 2025-2030, Chi bộ Cục xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm là tiếp tục thể chế hóa các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước về phát triển thương mại điện tử và chuyển đổi số. Ba nội dung kiến nghị chính bao gồm: đẩy nhanh tiến độ hoàn thành dự án Luật thương mại điện tử, đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện hệ sinh thái số trong lĩnh vực công thương, và tiếp tục triển khai hiệu quả các chủ trương về phân cấp thủ tục hành chính cho địa phương và thực hiện mô hình chính quyền hai cấp.

Cục trưởng Lê Hoàng Oanh nhấn mạnh, thương mại điện tử và chuyển đổi số không chỉ là xu hướng mà còn là yêu cầu tất yếu để Việt Nam hội nhập và phát triển bền vững trong kỷ nguyên mới. Chi bộ Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số sẽ tiếp tục bám sát chỉ đạo của Đảng ủy Bộ, phối hợp chặt chẽ với các đơn vị liên quan để tích cực triển khai các nhiệm vụ được giao, góp phần vào thành công chung của Đại hội Đảng bộ Bộ Công Thương nhiệm kỳ 2025-2030.

Thông tin về Đại hội Đảng bộ Bộ Công Thương nhiệm kỳ 2025-2030 có thể được tìm hiểu thêm tại https://www.moit.gov.vn.

Thông tin về Luật thương mại điện tử có thể được tìm hiểu thêm tại https://thuvienphapluat.vn/phap-luat/luat-thuong-mai-dien-tu-2023-co-hieu-luc-khi-nao-202269615.html.

Thông tin về Cổng dịch vụ công của Bộ Công Thương có thể được tìm hiểu thêm tại https://dichvucong.gov.vn.

]]>
Đề xuất thuế căn nhà thứ hai để kìm giá bất động sản https://kinhte.org/de-xuat-thue-can-nha-thu-hai-de-kim-gia-bat-dong-san/ Mon, 28 Jul 2025 11:52:57 +0000 https://kinhte.org/de-xuat-thue-can-nha-thu-hai-de-kim-gia-bat-dong-san/

Đại học Kinh tế Quốc dân (NEU) vừa kiến nghị gửi tới Chính phủ và các bộ ngành liên quan về các vấn đề kinh tế đang được quan tâm hiện nay. Trong đó, đổi mới mô hình tăng trưởng để tạo tiền đề cho tăng trưởng kinh tế là một trong năm vấn đề được NEU đề cập đến.

Cụ thể, các chuyên gia của NEU cho rằng, bên cạnh các giải pháp như tinh giảm hệ thống doanh nghiệp nhà nước và nâng cao chất lượng thể chế, tìm kiếm các nguồn thu bền vững mới để thay thế một phần cho các nguồn thu truyền thống cũng là yếu tố quan trọng. Theo đó, Việt Nam nên cân nhắc đánh thuế căn nhà thứ hai trở đi nhằm hạn chế tình trạng đầu cơ và găm giữ bất động sản. Đây là nguyên nhân khiến tình trạng ‘đô thị ma’ xuất hiện, kéo theo sự khan hiếm nguồn cung trên thị trường thứ cấp.

Nhóm nghiên cứu NEU đánh giá, khi chi phí sở hữu căn nhà thứ hai tăng lên do thuế, những chủ thể găm giữ sẽ có xu hướng sử dụng hiệu quả hơn bằng cách buộc phải bán bớt hoặc cho thuê, hoặc đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó, giúp tăng nguồn cung và góp phần hạ nhiệt giá nhà trên thị trường, từ đó hỗ trợ thị trường bất động sản trở nên lành mạnh cũng như tránh lãng phí tài nguyên.

Thứ hai, sửa đổi/cắt giảm gánh nặng thuế thu nhập cá nhân nên được thực hiện trong bối cảnh căng thẳng thương mại gia tăng và đối mặt với nguy cơ các quốc gia như Mỹ áp đặt thuế quan cao. Theo các nhà nghiên cứu, mức giảm trừ gia cảnh chậm được điều chỉnh, không theo kịp lạm phát và chi phí sinh hoạt thực tế, cũng như bậc thuế quá sát nhau khiến nhiều người dân, đặc biệt là tầng lớp trung lưu và thu nhập thấp phải chịu thuế ở mức cao ngay cả khi thu nhập chỉ vừa đủ để trang trải cuộc sống.

Chính vì vậy, nếu điều chỉnh giảm sắc thuế này sẽ giúp tăng thu nhập khả dụng cho người dân, từ đó khuyến khích người dân tăng chi tiêu cho hàng hóa, dịch vụ trong nước và bù đắp một phần sụt giảm từ hoạt động xuất khẩu.

Thứ ba, Việt Nam nên áp dụng chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp dựa trên tỷ lệ nội địa hóa của các doanh nghiệp xuất khẩu. Nhóm nghiên cứu NEU đánh giá đây là một công cụ hiệu quả để phát triển công nghiệp phụ trợ và tăng cường khả năng chống chịu của nền kinh tế trước các biến động thương mại toàn cầu.

Thông qua việc chủ động nguồn cung trong nước, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam sẽ giảm thiểu được rủi ro bị ảnh hưởng từ các chính sách thương mại quốc tế bất lợi, đảm bảo tính ổn định và bền vững cho hoạt động xuất khẩu.

Năm chủ đề được các chuyên gia NEU kiến nghị lên Chính phủ bao gồm: (i) Đổi mới mô hình tăng trưởng kết hợp cải cách thể chế nhằm tạo tiền đề cho tăng trưởng kinh tế; (ii) Hoàn thiện tư duy và cách thức nhìn nhận khu vực kinh tế tư nhân; (iii) Cải thiện chất lượng đầu tư công hướng tới mục tiêu tăng trưởng trung hạn; (iv) Tăng cường phát triển nền kinh tế số và kinh tế xanh và (v) Phát triển các vùng kinh tế động lực nhằm tạo đà cho tăng trưởng kinh tế.

Cũng tại bản kiến nghị, nhóm nghiên cứu NEU nhận định, từ năm 2011 đến nay, so với các khu vực kinh tế khác, khu vực kinh tế tư nhân tại Việt Nam còn tồn tại 3 hạn chế bao gồm: (i) có hiệu quả kinh doanh thấp nhất; (ii) có trình độ khoa học công nghệ thấp nhất và (iii) thu nhập của người lao động thấp nhất.

Đối mặt với thực trạng khu vực kinh tế tư nhân đang có biểu hiện ‘chững lại’ về mặt tốc độ, nhóm nghiên cứu đề xuất Chính phủ cần hoàn thiện chính sách thuế bình đẳng cho các doanh nghiệp tư nhân so với các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI.

Thứ nhất, cần thực hiện nhanh chóng áp dụng chính sách thuế tối thiểu toàn cầu. Theo các nhà khoa học NEU, mức thuế thu nhập doanh nghiệp phổ biến ở Việt Nam hiện nay là 20%. Tuy nhiên, thông qua các chính sách ưu đãi, khu vực FDI được hưởng mức thuế suất trung bình vào khoảng 12%, đồng nghĩa chênh lệch khoảng 2,7% so với thuế tối thiểu toàn cầu.

Thứ hai, phải giải quyết hợp lý vấn đề liên quan đến chuyển giá của các doanh nghiệp FDI. Theo đó, cần ngăn chặn hiện tượng các doanh nghiệp FDI hoạt động kinh doanh có lãi tại Việt Nam nhưng tìm cách chuyển thành chi phí nguyên nhiên vật liệu, thiết bị, tài sản trí tuệ, dịch vụ nhập khẩu với giá khá cao. Trong đó, người xuất khẩu chính là công ty mẹ ở nước ngoài để có được khoản thu lời lớn.

Cuối cùng, xóa bỏ tình trạng trốn thuế của các doanh nghiệp FDI thông qua chính sách chuyển giá bất hợp lý. Nhóm nghiên cứu NEU cho rằng cơ quan chức năng cần nghiên cứu áp dụng các biện pháp phòng chống trốn và tránh thuế đang áp dụng tại các nước tiên tiến để giải quyết vấn đề trên.

Từ năm 2011 đến nay, lợi nhuận trước thuế bình quân của một doanh nghiệp tư nhân chỉ bằng 0,52% của doanh nghiệp nhà nước và gần 3,1% của doanh nghiệp FDI, đồng thời năng suất lao động chỉ bằng 34% năng suất lao động của khu vực doanh nghiệp nhà nước và khoảng 69% năng suất lao động của khu vực FDI.

Bên cạnh đó, theo số liệu từ Cục Thống kê (2023), nếu xét các doanh nghiệp chế biến chế tạo khu vực tư nhân hiện nay, tỷ lệ sử dụng công nghệ lần lượt là 12%, 23% và 56% (cao, trung bình và thấp). Ngoài ra, thu nhập bình quân của người lao động doanh nghiệp tư nhân chỉ bằng 57,1% doanh nghiệp nhà nước, 78,4% doanh nghiệp FDI.

]]>
Đổi mới quản trị doanh nghiệp nhà nước: Chìa khóa nâng cao hiệu quả đầu tư https://kinhte.org/doi-moi-quan-tri-doanh-nghiep-nha-nuoc-chia-khoa-nang-cao-hieu-qua-dau-tu/ Mon, 21 Jul 2025 21:56:55 +0000 https://kinhte.org/doi-moi-quan-tri-doanh-nghiep-nha-nuoc-chia-khoa-nang-cao-hieu-qua-dau-tu/

Khu vực kinh tế nhà nước (KTNN) hiện đang đóng vai trò chủ lực trong các ngành, lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế. Không chỉ đảm bảo an ninh năng lượng, an ninh lương thực, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo vệ chủ quyền quốc gia, KTNN còn là lực lượng sản xuất chủ đạo, dẫn dắt và hỗ trợ khu vực tư nhân phát triển. Đặc biệt, các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đang nắm giữ vai trò trụ cột trong các lĩnh vực then chốt như năng lượng, tài chính, viễn thông, khai thác tài nguyên chiến lược và phát triển hạ tầng kỹ thuật quốc gia.

Ngoài vai trò là lực lượng sản xuất chủ đạo, các DNNN còn đóng vai trò quan trọng như công cụ điều tiết thị trường, hỗ trợ khu vực tư nhân phát triển, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững và công bằng xã hội. Tuy nhiên, trong những năm qua, khu vực DNNN cũng bộc lộ nhiều bất cập. Chỉ số ICOR trung bình của DNNN ở mức 6,1, cao hơn nhiều so với khu vực tư nhân và doanh nghiệp FDI. Nhiều dự án do DNNN làm chủ đầu tư vẫn xảy ra tình trạng chậm tiến độ, đội vốn, hiệu quả thấp, gây lãng phí nguồn lực.

Về quản trị doanh nghiệp, nhiều DNNN vẫn duy trì mô hình quản lý mang tính hành chính, chưa ứng dụng đầy đủ thông lệ quản trị tiên tiến; chuyển đổi số còn chậm, dữ liệu phân tán. Từ Nghị quyết Trung ương 3 khóa IX (năm 2001) về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN, đến Nghị quyết số 12-NQ/TW (năm 2017), Đảng ta luôn nhất quán quan điểm: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế; DNNN phải trở thành lực lượng vật chất quan trọng, dẫn dắt và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.

Luật số 68/2025/QH15 được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/8/2025, đã tạo hành lang pháp lý mới cho việc quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Luật này thể hiện bước tiến quan trọng trong thể chế hóa chủ trương của Đảng: tăng quyền tự chủ, tăng trách nhiệm giải trình, tách bạch chức năng quản lý nhà nước và chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước.

Để phát huy vai trò, nâng cao hiệu quả KTNN, cần tập trung thực hiện một số giải pháp trọng tâm. Đó là hoàn thiện thể chế; đổi mới quản trị doanh nghiệp; đẩy nhanh cổ phần hóa, thoái vốn; chuyển đổi số, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; phân cấp gắn với trách nhiệm giải trình. Trong bối cảnh phát triển mới, KTNN với lực lượng nòng cốt là các DNNN vẫn giữ vai trò nền tảng trong phát triển kinh tế – xã hội.

Tuy nhiên, để khu vực này thực sự phát huy vai trò chủ đạo, không còn con đường nào khác ngoài tái cấu trúc toàn diện: vận hành theo nguyên tắc thị trường, quản trị hiện đại, minh bạch, chuyên nghiệp. Việc này sẽ giúp KTNN và các DNNN thực sự trở thành lực lượng chủ đạo, dẫn dắt và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, góp phần vào mục tiêu phát triển bền vững và công bằng xã hội.

]]>